Vấn đề quản lý môi trường từ các hoạt động chăn nuôi, giết mổ và chế biến sản phẩm chăn nuôi đòi hỏi chi phí đầu tư lớn. Giá thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu thức ăn chăn nuôi cao do chủ yếu phải nhập khẩu nguyên liệu dẫn đến giá thành sản xuất cao. Giá sản phẩm lại không ổn định nên chưa khuyến khích được các nhà đầu tư. Các doanh nghiệp lớn tham gia vào chăn nuôi để khép kín chuỗi giá trị sản phẩm chăn nuôi từ trang trại đến bàn ăn còn rất ít, chủ yếu là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngành chăn nuôi Việt Nam đang đánh mất lợi thế, đối mặt với nhiều khó khăn, bất cập. Trong khi đó, những công ty có vốn FDI đã đầu tư vào ngành này đang chiếm lĩnh thị trường, lấn áp các doanh nghiệp trong nước. Nếu không có giải pháp hữu hiệu, tương lai không xa, người tiêu dùng Việt Nam sẽ phải tiêu thụ thịt, trứng mang “mác” nước ngoài ngay trên đất nước của mình.
Vì đâu nên nỗi?
Cục trưởng Cục chăn nuôi, ông Hoàng Kim Giao cho biết, mặc dù Thủ tướng đã phê duyệt Chiến lược phát triển chăn nuôi đến 2020 (QĐ 10/2008/QĐ-TTg) nhưng sau gần 4 năm cả nước có 40/63 tỉnh, thành hoàn thành có đề án quy hoạch phát triển chăn nuôi, 3/63 tỉnh, thành chưa có đề án phê duyệt quy hoạch. Cơ chế, chính sách về quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi vẫn chưa được ban hành. Chưa ban hành chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi (theo Chiến lược phát triển chăn nuôi đến 2020). Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đối với các nhà đầu tư FDI trong ngành chăn nuôi thiếu rõ ràng và minh bạch. Tổ chức chăn nuôi, thu mua, chế biến và tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi ở Việt Nam còn nhiều vấn đề mâu thuẫn, phức tạp khó xử lý. Trong chuỗi giá trị sản phẩm chăn nuôi thì việc phân chia lợi nhuận giữa người chăn nuôi, thương lái, người giết mổ và người phân phối chưa hài hòa, trong đó người chăn nuôi chịu nhiều thiệt thòi và gặp rủi ro cao.
Các “ông lớn” FDI thao túng
Ngành chăn nuôi thu hút không nhiều vốn FDI, tuy nhiên, những công ty FDI đã đầu tư vào Việt Nam đang dần lấn áp các doanh nghiệp trong nước. Cục chăn nuôi cho biết, hiện có 233 nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi, trong đó 58 nhà máy (24,9%) thuộc các công ty có vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm cả công ty 100% vốn nước ngoài và các công ty liên doanh) nhưng sản xuất thức ăn công nghiệp quy đổi chiếm tới 60% tổng sản lượng thức ăn chăn nuôi (khoảng 10,6 triệu tấn/2010). Thị phần thức ăn chăn nuôi công nghiệp của một số công ty nước ngoài hàng đầu như CP Việt Nam chiếm khoảng 18%, Pronco là 12%, New Hope khoảng 9 - 10%, Cargill và Vietnam’s Green Feed khoảng 8% mỗi công ty.
Ông Chinh lưu ý, theo Luật cạnh tranh thì thị phần của từng công ty FDI không vượt quá 30%. Tuy nhiên, thị phần quan trọng trong các lĩnh vực trọng yếu của ngành chăn nuôi đang nghiêng về các công ty nước ngoài với tỷ lệ áp đảo.
Trước thực tế này, nếu Nhà nước không nhanh chóng có những chính sách hiệu quả để khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp chăn nuôi trong nước có đủ sức cạnh tranh với các công ty nước ngoài, thì tương lai không xa người tiêu dùng trong nước sẽ có thể phải ăn thịt và trứng nhập khẩu sản xuất ngay trên chính nước mình.
Về giống vật nuôi, đối với giống gà công nghiệp lông trắng thì các công ty nước ngoài vẫn chiếm ưu thế vượt trội. Công ty Japfa, CP Việt Nam và Emivest xuất bình quân 6 triệu gà giống/tháng cho người chăn nuôi. Ở lĩnh vực thuốc thú y, các công ty nước ngoài chiếm thị phần đến khoảng 80%. Sản phẩm thịt, trong các công ty nước ngoài hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực chăn nuôi thì Công ty CP là công ty hàng đầu chiếm thị phần 50% trứng gà, 30% thịt gà và 7% thịt heo. Công ty này chỉ cung cấp khoảng 5% về giống heo nhưng lại chiếm tới 8% thị phần sản phẩm từ heo trên thị trường.
Bài viết cùng chuyên mục
Online | 6 |
Tổng truy cập: | 907740 |